You are here

Chim Poong kle

Tác giả: 
Nhật Lai
Thông tin thêm về Tác giả: 

 

NHẬT LAI

 

Tên khai sinh của ông là Nguyễn Tuân, sinh năm 1931, tại Tuy An, Phú Xuyên, nguyên công tác tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Ông đã mất ngày 5/1/1987.

Nhạc sĩ Nhật Lai hoạt động âm nhạc tại miền Trung và Tây Nguyên trong những năm Kháng chiến chống Pháp, Khi tập kết ra Bắc, ông ở Đoàn Văn công Tây Nguyên và được biết đến như một nhạc sĩ đầu tiên kế thừa và phát triển tinh hoa dân ca Tây Nguyên. Đây là dòng chảy mạnh nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nhật Lai. Bên cạnh các ca khúc đáng nhớ như: Con chim lạc đàn, Chim poong-kle, Tiếng hát Mơnông – Tipri, Đợi chờ…là những hòa tấu như: Vũ khúc Tây Nguyên, Suối đàn Krông Pa…, đặc biệt là vở nhạc kịch Bên bờ Krông Pa.

Miền Bắc bước vào cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông vào ngay Quảng Bình, và Kể chuyện sông Nhật Lệ thấm đượm chất liệu hò Quảng Bình đã ra đời rất độc đáo. Những ngày ở Quảng Bình, ông còn viết Đan lưới. Trở về Hà Nội mấy năm sau, ông viết Hà Tây quê lụa, sau này được chọn làm nhạc hiệu cho Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Tây, và viết Bài ca anh Hồ Giáo. Những ca khúc mang đậm chất liệu âm nhạc dân gian, cùng với bản Giao hưởng số 1 đã khẳng định vị trí xứng đáng của Nhật Lai trong âm nhạc Việt Nam .

Đặc biệt, trong lĩnh vực nhạc múa, ông đã để lại những tác phẩm giá trị như kịch múa Thạch Sanh, Nỏ thần…

Ông đã vinh dự được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I năm 2001.

Thể hiện: 
Đinh Thìn - Dàn nhạc Dân tộc Nhà hát CMNVN
Thông tin thêm: 

 

ĐINH THÌN (SÁO TRÚC)

 

Tên khai sinh của ông là Đinh Văn Thìn, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1939, quê ở Thanh Hưng, Thanh Chương, Nghệ An, nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam.

Ông hoạt động âm nhạc từ rất sớm. Năm 1954, ông đã là diễn viên trong Đoàn Văn công Liên khu IV. Từ năm 1957 đến năm 1963, ông công tác tại Đoàn Chèo Trung ương. Từ năm 1963 đến năm 1994, ông là nghệ sĩ độc tấu Sáo ở Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam. Ông đã cùng với một số đồng nghiệp đi phục vụ đồng bào và chiến sĩ trong những ngày chiến tranh ác liệt. Ông đã từng đi lưu diễn ở nhiều nước trên thế giới. Ông có nhiều đóng góp giá trị trong việc cải tiến kỹ thuật diễn tấu của cây sáo trúc Việt Nam.

Ngoài độc tấu sáo, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm cho nhạc cụ dân tộc, đặc biệt là cho sáo. Ông sáng ca khúc không nhiều, nhưng nhiều bài đã có sức phổ biến rộng. Các tác phẩm đáng chú ý:Trăng sáng quê tôi, Trên đường chiến thắng, Vui chiến thắng(độc tấu sáo), Cô gái xã viên (độc tấu đàn nhị), Trăng rằm (độc tấu đàn đáy), Mùa hoa ban nở (độc tấu khèn), Vui hội mùa (hòa tấu dàn nhạc dân tộc), Hẹn hò (độc tấu sáo Mèo), Khúc tâm tình cho đàn môi. Ca khúc Hình dáng đất Mẹ anh hùng, Trên giàn giáo giữa tầng cao, Tiếng hát Thác Bà, Hát về đất nước tôi, Cây sáo người chiến sĩ, Cội nguồn, Với tre xanh. Các giải thưởng: Giải Nhì sáng tác Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 1980, Giải độc tấu sáo UNESCO năm 1980 và 1985, Huy chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Huy chương Chiến sĩ Văn hóa, Huân chương Hoàng hậu Campuchia. Ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1984.

Thể loại: 
ca khúc: 
Bản nhạc (dạng ảnh): 
Chim Poong kle

ĐĂNG BÌNH LUẬN

CAPTCHA
This question is for testing whether or not you are a human visitor and to prevent automated spam submissions.
18 + 2 =