You are here

Festival Âm nhạc mới “Á - Âu” 2018: giới thiệu tác giả và nghệ sĩ trong chương trình Bế mạc

Lễ Bễ mạc diễn ra vào 19 giờ 30 ngày 27/11/2018 tại Phòng hòa nhạc Lớn Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam

Nhạc sĩ và tác phẩm:

1. Rustam Abdullayev (Uzbekistan)

Rustam Abdullayev sinh năm 1947 tại Khiva. Năm 1972, ông tốt nghiệp Học viện Âm nhạc quốc gia Tashkent, khoa Sáng tác.

Từ năm 1975, ông dạy Sáng tác tại Nhạc viện Quốc gia Uzbekistan, trở thành Giáo sư từ năm 1985, là Bí thư - Chủ tịch Liên hiệp các nhà soạn nhạc Uzbekistan và Bastakors từ năm 1995.

Ông đã đoạt giải tại cuộc thi dành cho các nhà soạn nhạc trẻ (Matxcơva, 1976). Năm 1987, ông được trao Giải thưởng Nhà nước Uzbekistan, là Nghệ sĩ Danh dự của nước Cộng hòa Uzbekistan (1997) và một số danh hiệu khác.

R. Abdullaev là tác giả của ba vở opera,  Ballet: “Nghiêng mình trước mặt trời”, bản giao hưởng cho dàn nhạc dây, năm buổi hòa nhạc cho piano với dàn nhạc, ba khúc dạo đầu, mười bài thơ giao hưởng, năm bài thơ cho dàn nhạc thính phòng và bộ gõ, bản vẽ đa âm, khúc dạo đầu: “Hymn đến Thái Lan”, “Ratalla” cho piano, dàn nhạc và bộ gõ, “Elegy” cho dàn nhạc piano và thính phòng, vocal - giao hưởng, với hơn một trăm tác phẩm nhạc cụ thính phòng, 5 tổ khúc thanh nhạc, với hơn 150 tác phẩm hòa tấu, bài hát...

R. Abdullaev tham gia của nhiều liên hoan âm nhạc và các cuộc thi được tổ chức tại Matxcơva, St. Petersburg, Kazakhstan và Georgia. Các tác phẩm của ông được biểu diễn ở Nga, Mỹ, Trung Quốc, Đức, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Thái Lan, Hàn Quốc và Cộng đồng các quốc gia độc lập.

“Ratalla” phần I cho Piano và Dàn nhạc

“Ratalla” được viết cho piano, dàn nhạc dây và bộ gõ. Tác phẩm nổi bật với những ý tưởng độc đáo, ý chí dám làm, bản sắc dân tộc trong tư duy và kỹ thuật sáng tác. Tác phẩm “Ratalla” cho thấy một bối cảnh quốc gia tươi sáng, được bổ sung các chất liệu truyền thống cổ xưa.

“Ratalla” là một tác phẩm hòa nhạc một phần cho piano với dàn nhạc. Tác phẩm thể hiện sự phát triển của khí nhạc Uzbek, đã có sự kết hợp nghiên cứu tìm tòi hình thức và thể loại mới, truyền cảm hứng và sức hút đối với nghệ sĩ biểu diễn.

“Ratalla” là một từ Uzbek cổ đại rất khó để dịch sang các ngôn ngữ khác. Trong đó, nhịp điệu là phương tiện biểu cảm âm nhạc quan trọng nhất.

Trong phần giới thiệu, tác giả đã sử dụng một nhạc cụ cổ xưa có tên gọi là zang, tạo ra âm thanh độc đáo nguyên bản. Zang được gắn vào các ngón tay trái của nghệ sĩ độc tấu, để tạo tiếng rung nhẹ. Kỹ thuật chơi này giúp tạo nên những âm thanh bí ẩn, vì nó đắm chìm người nghe vào quá khứ.

Âm sắc chính là nguyên tắc chính trong tác phẩm “Ratalla”, đó chính là quá trình giai điệu được khoác lên mình một màu sắc mới.

2. La Thăng (Việt Nam)

 

Nhạc sĩ La Thăng sinh năm 1930 tại Hà Nội. Ông đã viết nhiều tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc, các ca khúc và hợp xướng, các bản hòa tấu thính phòng, giao hưởng viết cho nhạc cụ phương Tây và nhạc cụ dân tộc Việt Nam. Ngoài ra ông còn viết nhạc cho múa và điện ảnh… Các sáng tác của ông đã được biểu diễn, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong quần chúng nhân dân và đã được tặng “Giải thưởng Nhà nước” về Văn học nghệ thuật (năm 2012).

Bản Giao hưởng “Đất nước anh hùng” của La Thăng được viết từ năm 1964, trong thời gian còn đang có chiến tranh chống xâm lược, nên sau hơn nửa thế kỷ tác phẩm mới được công diễn tại Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam năm 2016 và tại Nhà hát Lớn Hà Nội năm 2017, được tặng giải thưởng hạng A trong thể loại giao hưởng của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Tác phẩm “Đất nước anh hùng” nhằm ca ngợi đất nước Việt Nam tươi đẹp, nhân dân Việt Nam yêu hòa bình, tự do nhưng sẵn sàng đứng dậy, kiên cường, bất khuất chống kẻ thù xâm lược, đem lại độc lập, vinh quang cho Tổ quốc.

3. Isao Matsushita (Nhật Bản)

Matsushita Isao (1951-2018) tốt nghiệp tại Đại học Nghệ thuật Tokyo và Đại học Hochshule Der Kuenste, Berlin.

Matsushita tham gia vào một số liên hoan âm nhạc, tác phẩm opera của ông “Câu chuyện của Shinano-no-Kuni-Zenkoji” được công chiếu lần đầu trong chương trình văn hóa của Thế vận hội Mùa Đông 1998 tại Nagano. Năm 2000, vở Concerto cho trống Nhật Bản của ông “Hi-Ten-Yu” được Dàn nhạc Giao hưởng Berlin biểu diễn.

Matsushita từng là Chủ tịch Liên đoàn các nhà soạn nhạc châu Á (ACL) từ năm 1999 đến năm 2004, và từ năm 2014 đến năm 2018. Ông cũng là Chủ tịch của Liên đoàn các nhà soạn nhạc Nhật Bản, Phó Chủ tịch của Đại học Nghệ thuật Tokyo, và là giáo sư Trung tâm biểu diễn nghệ thuật của Đại học Nghệ thuật Tokyo. Ông là người bạn lớn của giới âm nhạc Việt Nam, là người nối nhịp cầu âm nhạc giữa Nhật Bản với Việt Nam và các nước Á- Âu.

Ông qua đời ngày 16 tháng 9 năm 2018.

Flute Concerto “JODO”

Ông sáng tác bản Concerto này “JODO” với mong muốn thể hiện một thế giới thanh tịnh vĩnh cửu bằng âm thanh. Âm thanh được đan xen giữa tiếng đàn Harp, đàn Celesta và Vibraphone bay bổng và tươi đẹp hướng tới một thế giới tinh khiết và cao sang.

Ban đầu, tiếng nhạc du dương nhẹ nhàng bằng âm thanh của những dây chính. Sau hai đoạn cadenzas, âm thanh nhảy múa tự do. Giai điệu trở nên vui tươi rộn ràng, mang tới cho người nghe cảm giác vui vẻ dễ chịu.

4. Ad van Dongen (Hà Lan)

Ad van Dongen là một nhà soạn nhạc và là Giám đốc của Big Orange Music studio, một phòng thu có tiếng ở Amsterdam, Hà Lan. Ad van Dongen chuyên về viết nhạc cho phim, các chương trình tài liệu và có hơn 20 năm kinh nghiệm sáng tác.

Năm 2014, ông là giáo sư thỉnh giảng trong một vài tháng, giảng dạy sáng tác nhạc phim tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam tại Hà Nội. Ông đã giành một số giải thưởng âm nhạc với một số dự án, bao gồm Prix d’Europe, 2 đĩa Nipkow, giải thưởng Erasmus, Giải Cannes Lions và giải thưởng Golden Calf cho nhạc phim hay nhất.

“The Doom of the Van Imhoff” cho Dàn nhạc, gồm một series các bản nhạc cho bộ phim tài liệu ly kỳ về một con tàu đắm ở vùng biển của Indonesia. Phần chủ đề chính sẽ được dàn nhạc giao hưởng biểu diễn tại Festival lần này. Để bắt chước âm thanh của các thiết bị điện tử được sử dụng trong phần gốc, phần nhạc được biểu diễn tại Festival lần này đã được phối lại bằng cách sử dụng các kỹ thuật dàn nhạc đương đại mở rộng.

5. Ramon P. Santos (Philippines)

Ramón Pagayon Santos sinh năm 1941, thuộc nhóm các nhà soạn nhạc Philippines mới và nhạc thể nghiệm. Ông học Sáng tác và chỉ huy tại Đại học Philippines, tốt nghiệp Thạc sĩ Âm nhạc (loại xuất sắc) và lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Indiana và Đại học bang New York tại Buffalo. Ông nhận học bổng toàn phần tham dự các khóa học nhạc hè tại Darmstadt, Đức, và nghiên cứu sau đại học về Âm nhạc dân tộc học tại Đại học Illinois dưới sự tài trợ của Quỹ Ford và Hội đồng Văn hóa châu Á. Ông đã được trao tặng học bổng tại Trung tâm Nghiên cứu Bellagio và Trung tâm Civitella Ranieri ở Ý. Ông cũng được bầu làm Thành viên Danh dự của Liên đoàn các nhà soạn nhạc châu Á và đã giữ chức Chủ tịch giai đoạn năm 1994-1997, ông cũng được bầu làm Phó Chủ tịch của Hội đồng Âm nhạc quốc tế tại UNESCO từ năm 2001 đến 2005.

Là nhà soạn nhạc, các tác phẩm của ông được định hình theo các giá trị thẩm mỹ của truyền thống nghệ thuật Philippines và Đông Nam Á, có pha trộn các yếu tố phương Tây và kết hợp đa dạng các loại nhạc cụ dàn nhạc, gamelan Java, nhạc cụ bản địa của Philippines và các yếu tố thanh nhạc khác nhau. Ông hiện là Giáo sư Danh dự Đại học của trường Đại học Philippines và được phong tặng là Nghệ sĩ Âm nhạc Quốc gia năm 2014.

“L'BAD” cho Dàn nhạc Giao hưởng

Tiêu đề của tác phẩm “L’BAD” có nguồn gốc từ chữ Lebad, là đơn vị âm nhạc nhỏ nhất trong tagunggo hay khí nhạc của người Yakan ở miền Nam Philippines. Là một yếu tố “hạt nhân”, Lebad, thông qua sự lặp lại, hoán vị và vị trí, tạo nên sự đa dạng mật độ và màu sắc âm thanh. Áp dụng nguyên tắc tương tự trong việc sáng tác tác phẩm này, trong đó các phần mô hình có liên quan tới sự thay đổi về thời gian, màu sắc đan xen với các chất liệu khác tạo nên những trường âm thanh khác nhau.

6. Maria Christine Muyco (Philippines)

Tiến sĩ Maria Christine Muyco vừa là một nhà soạn nhạc, nhà nghiên cứu người Philippine, và cũng là nhà âm nhạc dân tộc học (Tiến sĩ nghiên cứu Philippines tại Đại học Philippines; Nghiên cứu âm nhạc dân tộc học và Lý thuyết múa tại Đại học California Los Angeles (UCLA), Giảng viên tại Khoa Sáng tác Âm nhạc M.Mus, Đại học British Columbia; BM Sáng tác nhạc, Đại học Philippines).

Bà nhận học bổng Fulbright năm 2016, và học bổng tài trợ nghiên cứu của Quỹ Nhật Bản năm 2016. Các ấn phẩm mới nhất của bà bao gồm SIBOD: Hệ tư tưởng và cách biểu đạt trong Vũ điệu Binanog, Âm nhạc và Dân gian của Panay Bukidnon. Bà là Nguyên Trưởng khoa Lý luận và Sáng tác, Đại học Philippines và là Giáo sư khoa Lý luận và Sáng tác.

Ngoài ra, bà còn là Chủ tịch của ACL Philippines từ năm 2010 đến 2015.

Bu (u) kot cho Dàn nhạc thính phòng

Là một tác phẩm viết về sự ngăn chặn và giải phóng. Với phần cao trào, biểu đạt qua giọng hát với các nhạc cụ của dàn nhạc, tác phẩm này lấy cảm hứng từ truyền thống của người Panay Bukidnon, một tộc người bản địa của Philippines, về binukot, hay những thiếu nữ bị trói buộc trong văn hóa của cộng đồng họ. Họ học hát, âm nhạc, khiêu vũ, và các cách biểu đạt văn hóa khác trong khi bị nhốt trong một căn phòng trong nhiều năm.

Khi một người sẵn sàng kết hôn, họ sẽ được giới thiệu với mọi người qua một điệu nhảy. Âm nhạc trong tác phẩm không chỉ là một phần bổ sung cho điệu múa mà bản thân nó còn là thể hiện giọng hát của một người với sự hỗ trợ của các nhạc cụ khác trong dàn nhạc.

7. Bakhtiyar Amanzhol (Kazakhstan)

Amanzhol Bakhtiyar Tutkabayuly sinh tại Almaty ngày 28.02.1952. Ông vừa là nhà soạn nhạc, nhà nghiên cứu âm nhạc, là nhạc công và đồng thời là một nhà giáo.

Năm 1977, ông tốt nghiệp Nhạc viện Tchaikovsky Matxcơva và trở thành nhà soạn nhạc. Năm 1980, hoàn thành khóa học sau đại học với Giáo sư A.I. Pirumov.

Từ năm 1980, ông là giảng viên tại Nhạc viện quốc gia Kazakhstan Kurmangazy khoa Lý luận và Sáng tác. Ông cũng dạy sáng tác tại các trường nhạc ở trung tâm thành phố.

Năm 1986, ông thành lập một nhóm nhạc thanh thiếu niên và học sinh. Nhóm nhạc biểu diễn các tác phẩm của ông tại các liên hoan âm nhạc thanh thiếu niên (Litva, Tadijikistan, Kirghizia) và một buổi hòa nhạc tại Matxcơva (1990).

Từ cuối những năm 80, ông tham gia vào các hoạt động nghiên cứu âm nhạc, biểu diễn tại nhiều hội thảo quốc tế.

Các tác phẩm chính: Tứ tấu đàn dây (1979), Hòa nhạc cho violin và dàn nhạc (1980), “Pages from the epos” cho piano (1984), “Dalanyn keshtiry” cho baritone và piano (1986), “Boz ingen” cho người kể chuyện và piano (1987), “Kiyadan kiku tuskende atynyn basyn tartpagan” dàn nhạc chơi nhạc cụ truyền thống Kazakh (1987), “Makaldar”, “Janyltpashtar” cho hợp xướng (1989), “Jandany”, Kyi cho dombyra (1989), Tổ khúc cho ban nhạc dây dựa trên các làn điệu Kazakh (1997), “Những cánh cửa” cho piano (1998), “On empty coast” cho dàn nhạc giao hưởng (2000), “The Sandy place” cho nhóm ngẫu hứng (2003), “Dành cho người phụ nữ ngắm nhìn các vì sao”  cho violin và cello (2004), “The song at parting” cho nhóm nhạc, “Transition through the river Ural” cho qobyz-prima và piano (2005), Giao hưởng “Doors” (2010), “Qultegin eskertkishi” (2018)…

“Eciktep” (Những cánh cửa) cho dàn nhạc giao hưởng, phần V “Bài hát ru chia tay”

Bản giao hưởng này mong muốn mang tới một hình ảnh mới, một giai đoạn tiến bộ của loài người và hành tinh chúng ta đang sinh sống. Tác phẩm gồm 5 phần. Phần I là sự hình thành đời sống tinh thần, sự ra đời của vũ trụ. Phần II là năng lượng sáng tạo của tạo hóa. Phần III là hình ảnh những cánh cửa hướng ra thế giới, đưa con người tới một không gian mới. Phần IV là nhịp điệu chuyển động của loại người, nhanh mạnh.

Phần V là lời chào từ biệt quá khứ. Âm nhạc xuyên suốt tác phẩm nghe như tiếng ru. Quá khứ ngủ yên, hình ảnh không gian hiện hữu, âm thanh hướng tới tương lai. Tác phẩm là hình thức kết hợp vừa đơn giản vừa phức tạp bởi sự giao thoa giữa các khoảng không gian. Tiếng kèn Pháp xuất hiện ở phần cuối như một tiếng gọi thức tỉnh.

8. Andrián Pertout (Úc)

Năm 2007, Andrian Pertout tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Triết học (PhD) tại trường Đại học Melbourne theo học bổng của Quỹ Tweddle, APA và MRS, chuyên ngành sáng tác dưới sự hướng dẫn của Brenton Broadstock. Các giải thưởng về sáng tác của ông gồm có Giải Jean Bogan, Friends & Enemies (Bạn và kẻ thù) - Giải thưởng dành cho các tác phẩm mới của Hoa Kỳ, Giải Betty Amsden, Giải thưởng cho dàn nhạc Louisville Orchestra (Hoa Kỳ), và Giải APRA dành cho tác phẩm viết cho dàn nhạc.

Các tác phẩm của ông được biểu diễn tại hơn 40 quốc gia trên thế giới bởi các dàn nhạc như Dàn nhạc Giao hưởng Melbourne và Tasmania, Dàn nhạc Louisville, Dàn nhạc Giao hưởng Jerusalem, Dàn nhạc Petrobras Sinfonica, Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Tatarstan, Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Mexico, Dàn nhạc Giao hưởng quốc gia Việt Nam và Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam, Dàn nhạc Giao hưởng Braxin, Dàn nhạc Giao hưởng Puerto Rico, Dàn nhạc giao hưởng Veridian, Dàn nhạc Giao hưởng Chi-lê, Dàn nhạc Robot của quỹ Logos, Dàn nhạc trường Đại học Hồng Kông, Dàn nhạc La Chepelle Musicale de Tournai và dàn nhạc dây Oare. 

Hiện ông là Chủ tịch Liên đoàn các Nhà soạn nhạc Melbourne (MCL).

“Atoms of Silence” cho Dàn nhạc Giao hưởng, số 444 (2017-2018)

“Atoms of Silence” có nội dung đề cao công việc của các nhà thiên văn học, nhà vũ trụ học, nhà vật lý thiên văn học, nhà sinh vật học vũ trụ và tác giả Carl Edward Sagan (1934-1996). Đây là sự kết hợp giữa nhiều học thuyết đối xứng trong tổng thể hài hòa về cấu trúc (một tổ hợp các hợp âm lặp đi lặp lại phối theo mô hình tam giác Pascal) và cấu trúc nhịp nhàng (một loạt các giai điệu lặp đi lặp lại, mô-tif được hệ thống thành các phần luân khúc nhịp nhàng, cân đối).

9. Vladimir Chernyavsky (Liên bang Nga)

Vladimir Chernyavsky sinh ngày 27 tháng 5 năm 1947. Ông là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ vùng Krasnodar và là thành viên Hội đồng, Hội Nhạc sĩ Nga.

Ông là nhà soạn nhạc, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội. Vladimir Chernyavsky là nghệ sĩ Danh dự của Nga, ông được trao giải của Hiệp hội các nhà soạn nhạc Nga.

Từ năm 1984, ông là Giám đốc nghệ thuật của Stavropol Philharmonic. Năm 1995, ông thành lập Đoàn ca múa “Tertsy”.

Hiện nay, ông là giáo sư tại Khoa Lý luận, Sáng tác và kiến thức cơ bản tại Nhạc viện Viện Krasnodar thuộc Trường Đại học Nghệ thuật quốc gia.

Ông cũng là tác giả của nhiều bản giao hưởng, vở opera, ballet, hợp xướng, tổ khúc giao hưởng và âm nhạc cho dàn nhạc dân tộc Nga.

Lezginka” cho Dàn nhạc giao hưởng

Là tên một điệu nhảy dân gian ở vùng Kavkaz. Đây cũng là phần nhạc đệm cho điệu múa cùng tên.

Nghệ sĩ biểu diễn:

1. Dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời (Sun Symphony Orchestra)

Dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời - Sun Symphony Orchestra được thành lập năm 2017 tại Hà Nội. Được sự bảo trợ của tập đoàn Sun Group, dàn nhạc Giao hưởng Mặt Trời mong muốn trở thành nơi nuôi dưỡng và mang đến những cơ hội mới cho các tài năng âm nhạc cổ điển Việt Nam. Mục tiêu dài hạn của dàn nhạc là đưa những buổi biểu diễn đẳng cấp tới khán giả trên khắp đất nước, đặt nền móng đưa âm nhạc cổ điển Việt Nam có tên trên bản đồ âm nhạc thế giới.

2. Olivier Ochanine (Pháp)

Giám đốc Âm nhạc | Nhạc trưởng Chính

Olivier Ochanine là một nhạc trưởng và nghệ sĩ sáo người Pháp, ông tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành chỉ huy dàn nhạc tại trường Đại học Nam California và theo học Tiến sĩ tại khoa Chỉ huy nhạc giao hưởng thuộc Học viện Âm nhạc Cincinnati. 

Olivier Ochanine đã xuất sắc vượt qua gần 120 nhạc trưởng từ 23 quốc gia trên thế giới, để giành giải nhất Cuộc thi Nhạc trưởng Quốc tế Antal Dorati tại Budapest, Hungary (2015), giải thưởng âm nhạc danh giá The American Prize (2015), đồng thời đoạt giải Nhì trong Cuộc thi Chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Quốc tế tại London, Anh Quốc (2015).

Với uy tín trên bục diễn và kiến thức rộng về nhạc giao hưởng, ông là cựu Giám đốc Âm nhạc và Nhạc trưởng chính trẻ nhất trong lịch sử Dàn nhạc Philippines Philharmonic (PPO), từng chỉ huy các buổi hòa nhạc của Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Việt Nam, là Nhạc trưởng khách mời thường xuyên của Dàn nhạc Sichuan Philharmonic (Trung Quốc), đồng thời tham gia chỉ huy Dàn nhạc Cincinnati College-Conservatory, Dàn nhạc Budapest MAV Symphony, Dàn nhạc Virtuosi Italiani, Dàn nhạc George Enescu Philharmonic, Dàn nhạc Moscow State Symphony, Dàn nhạc Gyor Philharmonic và nhiều dàn nhạc khác.

3. Nghệ sĩ Sáo Renata Penezic (Croatia)

 

Renata Penezić (sinh năm 1971, mang hai dòng máu Croatia - châu Âu) là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất của Croatia. Cô tốt nghiệp năm 1994 tại Học viện Âm nhạc Ljubljana (Slovenia), lớp của Giáo sư Fedja Rupel. Cô đã giành được nhiều giải thưởng tại các cuộc thi nhà nước ở Croatia và Slovenia. Ngay khi còn là sinh viên năm thứ ba, cô đã trở thành nghệ sĩ độc tấu solo của Dàn nhạc giao hưởng Zagreb.

Nhận học bổng Đức Deutscher Akademischer Austauschdienst (DAAD), cô đã hoàn thành các nghiên cứu âm nhạc bậc sau đại học tại Cologne trong lớp của Giáo sư/ nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng Andras Adorjan.

 Renata Penezić đã biểu diễn khắp Croatia, châu Âu và châu Á.

Cô đã cho ra mắt một số CD và một trong số đó (Hòa nhạc Giáng sinh) đã đoạt giải thưởng Porin hàng năm của Croatia năm 2006. Cô thường xuyên thu âm cho Đài Phát thanh Croatia. Các nhà soạn nhạc hàng đầu của Croatia đã sáng tác riêng những tác phẩm độc tấu sáo cho cô. Cô cũng là Giám đốc nghệ thuật của Nhóm các nghệ sĩ sáo Zagreb - ZAF.

Cùng với sự nghiệp biểu diễn nổi tiếng, Renata Penezić cũng giảng dạy tại Học viện Âm nhạc ở Zagreb. Cho đến nay, nhiều học sinh của cô đã giành được giải nhất tại một số cuộc thi. Cô thường xuyên tổ chức các lớp học sáo và nhạc thính phòng và là thành viên Ban Giám khảo tại nhiều cuộc thi trong nước và quốc tế.

4. Nghệ sĩ Múa Ma. Alexa Andrea Reyes Torte (Philippines)

Ma. Alexa Andrea Torte bắt đầu múa ballet lúc 7 tuổi dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ Ava Maureen Villanueva và Herbert Alvarez tại Trường múa Ava. Cô đã thử vai cho trường Trung học Nghệ thuật Philippine (PHSA) vào năm 2014 và được trao học bổng toàn phần học múa Ballet. Vào năm thứ 2, cô lọt vào chung kết trong cuộc thi âm nhạc quốc gia năm 2011 dành cho nghệ sĩ trẻ (NAMCYA), hạng mục Junior Ballet. Năm 2014, cô tốt nghiệp PHSA với danh hiệu cao. Sau khi vào đại học, cô gia nhập Công ty UP Dance và trở thành một trong những người nhận giải thưởng danh dự cho Học bổng Biểu diễn dành cho sinh viên (HASPAG).

Cô cũng đã lọt vào chung kết cuộc thi Ballet Quốc gia hàng đầu thế giới (Hạng mục nghệ sĩ trẻ tuổi) vào năm 2014 và cuộc thi Ballet quốc gia lần thứ 2 năm 2016. Alex đã đảm nhiệm những vai chính trong Coppelia, Paquita, Hồ thiên nga, Alice lạc vào xứ sở thần tiên và Người đẹp ngủ trong rừng và đã biểu diễn solo với Dàn nhạc Giao hưởng Manila vào năm 2012 và 2013. Cô cũng tham gia vào Trại văn hóa Thái Lan ASEAN Quốc tế năm 2014 được tổ chức tại Thái Lan. Cô hiện đang theo học tại UP Diliman, chuyên ngành hiện vẫn là thành viên của Công ty UP Dance.

5. Nghệ sĩ Piano Mirzakamalova Elnura Rustamovna (Uzbekistan)

 

Mirzakamalova Elnura Rustamovna sinh ngày 6 tháng 10 năm 1986 tại Cộng hòa Uzbekistan, vùng Tashkent. Năm 2003, cô tốt nghiệp trường Âm nhạc đặc biệt mang tên V.A Uspenskiy. Năm 2008, cô nhận học bổng của Hàn Quốc và đã tốt nghiệp Đại học Nghệ thuật Hàn Quốc. Năm 2013, cô đã tốt nghiệp Thạc sĩ tại Nhạc viện Quốc gia Uzbekistan.

Hiện nay, cô là giảng viên tại khoa Fortepiano tại Nhạc viện Quốc gia Uzbekistan.

Cô đã tham gia rất nhiều liên hoan âm nhạc và các Chương trình hòa nhạc. Năm 2003, cô tham gia cuộc thi Concerto và giành giải Nhất, đã vinh dự chơi bản concerto #1 cho đàn piano với dàn nhạc giao hưởng Michigan Hoa Kỳ.

Các tiết mục concerto piano bao gồm: S.Bach Piano concerto # 5; A.Mozart Piano concerto # 21, # 20; L.Beethove Piano concerto # 5; F.Mendelssohn Piano concerto # 1; K. Bản concerto piano Sen-Sans # 2; F.LiztPino Concerto # 2.

* Nghệ sĩ biểu diễn trong Dàn nhạc Giao hưởng Mặt trời:

Violin I

Hojin Kim (Korea) - Associate Concertmaster                             

Nguyễn Thị Mỹ Hương (Vietnam) - Concertmaster

Nguyễn Thị Huyền Anh

Mariko Ishibashi  (Japan)

Roman Vorobyov (Belarus)

Đào Hổng Nhung

Lã Diềm My

Trần Lan Hương

Phạm Thanh Hà

Đỗ Thu Hương

Dương Thùy Châu

Trương Hồng Vũ

Hoàng Thị Thu Lê

Phạm Anh Thơ

 

Violin II

Donata Mzyk (Poland) - Principal

Dư Vũ Khánh Chi

Nguyễn Đăng Quân

Andrii Kreshchenskyi  (Ukraina)

Trần Quang Duy

Phạm Thị Hồng Ngọc

Nguyễn Thanh Hiếu

Nguyễn Phương Châm

Ma Thúy Anh

Nguyễn Thu Anh

Trần Lan Anh

Nguyễn Thùy Oanh

Lê Thị Thanh Hải

Nguyễn Vĩ Cầm

 

Viola

Juan Sebastian Castillo Diaz (Colombia) - Principal

Dior Tulaganov (Uzbekistan) - Associate Principal

Patcharaphan Khumprakob (Thailand)

Trần Thị Ngọc Thủy

Halubouskaya Sviatlana (Belarus)

Nguyễn Thị Hương Giang

Doãn Trung Anh

 

Cello

Eneko Aizpurua (Spain) - Principal

Maria Jose Romero Rodriguez (Venezuela) -Associate Principal

NSND Trần Thị Mơ

NSƯT Đào Tuyết Trinh

Nguyễn Diệu Hương

Phạm Ngọc Trâm

Hồ Phương Nhung

 

Contrabass

Marc Ramirez (USA) - Principal

David Carpio (Venezuela) - Associate Principal

Ngô Toàn Thắng

Tạ Vương Nam

Nghiêm Huy Vũ

Đỗ Hải Nam

 

Flute

Oliver Wild (Germany) - Principal

Nguyễn Ly Hương - Associate Principal

Nguyễn Trọng Bằng

 

Oboe

Bagaskoro Byar Sumirat (Indonesia) - Principal

Hoàng Mạnh Lâm (Vietnam) - Associate Principal

Phan Việt Cường

 

Clarinet

Vladimir Pavtchinskii (Portugal) - Principal

Nguyễn Minh Hoàng  - Associate Principal

Nguyễn Quốc Bảo

 

Bassoon

Sebastian Chaves Vargas  (Costa Rica) - Principal

Yuta Yasutake (Japan) - Associate Principal

 

French Horn

Alexander Oon (Singapore) - Principal

Assaf Chen (Israel) - Associate Principal

Nguyễn Tuấn Long

Clark Stewart (USA)

 

Trumpet

Alexander Khlebovich (Russia) - Principal

Yuki Urushihara (Japan) - Associate Principal

Nguyễn Minh Quý 

 

Trombone

Stefan Maciuk (Belarus) - Principal

John Christopher Trinnaman (UK)

                             - Associate Principal

Jose Antonio Rodriguez Vasquez (Spain)

 

Tuba

Radek Jisa (Czech) - Principal

 

Harp

Mai Ý Nhi

Cao Nhật Minh

 

Timpani

Kyle Acuncius (USA) - Acting Principal

 

Percusion

Hyanggee Lee (Korea) - Principal

Lữ Mạnh Cường

Doãn Mai Hương

Mạc Thăng Long

Nguyễn Nhật Quang

Nguyễn Hùng Kiên

 

Piccolo

Trọng Bằng

 

Bass Clarinet

Tuấn Lộc

 

Contrabassoon

Trần Minh Đức

 

Piano

Lâm Đức Chính

 

Celeste

Lâm Đức Chính

 

Synthesizer

Vũ Đức Tân

   

ĐĂNG BÌNH LUẬN

CAPTCHA
This question is for testing whether or not you are a human visitor and to prevent automated spam submissions.