You are here

Âm nhạc thời kinh tế thị trường và thời hội nhập (Phần 2)

Tác giả: 
Nguyễn Thị Minh Châu

Thời chiến và cả thời hậu chiến, công chúng âm nhạc được coi như một cộng đồng thụ động chỉ tiêu thụ duy nhất món ăn tinh thần bao cấp nặng về tuyên truyền, cổ động, ngợi ca. Thời kinh tế thị trường cũng lấy số đông làm trọng và đáp ứng cho nhu cầu thưởng thức âm nhạc của số đông ấy với mục tiêu chính là giải trí. 

Thị hiếu đại chúng và lý luận phê bình âm nhạc

Văn hóa âm nhạc phần nào được phản ánh qua vị thế của thị hiếu đại chúng và của hoạt động lý luận phê bình trong sinh hoạt âm nhạc thời kinh tế thị trường.

Thị hiếu đại chúng

Thời chiến và cả thời hậu chiến, công chúng âm nhạc được coi như một cộng đồng thụ động chỉ tiêu thụ duy nhất món ăn tinh thần bao cấp nặng về tuyên truyền, cổ động, ngợi ca.

Thời kinh tế thị trường cũng lấy số đông làm trọng và đáp ứng cho nhu cầu thưởng thức âm nhạc của số đông ấy với mục tiêu chính là giải trí. Mục đích lợi nhuận đã đưa thị hiếu số đông lên vị trí áp đảo, thậm chí thay thế số ít. Trong trình tự quen thuộc sáng tác - biểu diễn - thưởng thức, mắt xích đầu tiên là tác giả đã nhường chỗ cho mắt xích cuối cùng là công chúng, và công chúng trở thành đầu mối khởi sự, nhu cầu thưởng thức của khách hàng (tức thượng đế) quyết định tất cả các khâu còn lại: sáng tác, biểu diễn, phê bình âm nhạc.

Các nhà tổ chức biểu diễn, sản xuất chương trình và đầu tư cho sản phẩm nhạc thị trường luôn phải nghe ngóng tìm hiểu thị hiếu số đông. Ca khúc đại chúng vẫn là thể loại “vua” và xem chừng còn trị vì dài lâu. Nhạc nhẹ, nhạc trẻ, nhạc sến, nhạc não tình, nhạc học trò, nhạc teen… tóm lại là các kiểu nhạc giải trí ăn khách luôn thay đổi theo mùa (vì thế còn được gọi là nhạc thời trang), nhưng đều có đặc điểm chung là giai điệu đơn giản, thuận tai, dễ hát, dễ thuộc, đủ để tải lời ca nói về tình yêu. Giai điệu ấy, lời ca ấy chưa phải là tất cả, đấy chỉ là một trong những thành tố làm nên tiết mục ca nhạc nghe - nhìn, đôi khi “nhìn” còn quan trọng hơn cả “nghe” nhờ các yếu tố sân khấu đáp ứng nhu cầu mãn nhãn: vũ đạo, trang phục, ánh sáng, trang trí, màn hình… “Xem” ca nhạc trở thành thói quen của công chúng, thành ra những tiết mục các chương trình kỷ niệm (mà dân chúng vẫn gọi là chương trình “cúng cụ”) cũng được “múa hóa”, ca sĩ không tự nhảy nhót được thì dùng múa minh họa (múa solo, múa đôi, múa tốp), có khi chẳng ăn nhập gì với nội dung bài hát và còn gây phản cảm.

Vai trò của thị hiếu đại chúng được tôn lên nhờ tác động của kinh tế thị trường, lại được nhân lên gấp bội nhờ sự hỗ trợ báo chí truyền thông và về sau còn có thêm kỹ thuật công nghệ thông tin. Chẳng hạn như các sao nổi lên nhanh chóng nhờ công nghệ quảng cáo, hình ảnh và bài lăng-xê trưng khắp các mặt báo, khoe khoang từ ăn mặc, nhà cửa, xe cộ đến sinh hoạt đời tư, thậm chí dùng cả những chiêu thổi phồng scandal để gây chú ý của công chúng trẻ. Chẳng hạn như hình thức bình chọn của công chúng: kết quả giải thưởng các chương trình ca nhạc do các báo đài tổ chức, nhất là các chương trình truyền hình thực tế phát sóng dày đặc hiện nay đều phụ thuộc vào số lượt nhắn tin, gọi điện thoại hoặc gửi email tới ban tổ chức. Bình chọn của số đông người tiêu dùng quyết định thứ hạng tác phẩm hoặc tiết mục biểu diễn. Không thể đòi hỏi những người xem chương trình đại diện cho toàn bộ công chúng, cũng không thể dựa vào thị hiếu đại chúng mà xác định giá trị nghệ thuật của tác phẩm và tài năng của người biểu diễn, đó là chưa kể tính xác thực của hệ thống bình chọn. Trong các chương trình truyền hình tìm kiếm tài năng trẻ, nhiều gia đình bỏ hàng chục triệu, thậm chí cả trăm triệu mua sim rác để nhắn tin bình chọn cho con em mình.

Thị hiếu đại chúng và báo chí thị trường nuôi dưỡng cả một nền ca khúc đại chúng, trong đó có những ca khúc thị trường dễ dãi, nhạt nhòa, nghe lần đầu mà thấy na ná cái gì đó. Nhạc thị trường dù có nhiều mức từ hạng bình dân đến cỡ siêu thị, chung quy vẫn là hàng chợ và luôn thay đổi theo nhu cầu tiêu thụ. Chỉ dựa vào thị hiếu đại chúng, đưa ca khúc đại chúng - mà đa phần trong đó là nhạc kinh doanh, không có giá trị lâu bền - vào vị trí đại diện cho toàn bộ nhạc Việt, thì quả là điều đáng lo ngại không chỉ cho đời sống âm nhạc hôm nay, mà còn ảnh hưởng đến thẩm mỹ âm nhạc của nhiều thế hệ sau này.

Lý luận phê bình

Các nhà lý luận là những người sớm nhận thấy và đã từng lên tiếng về hiện tượng không thể coi âm nhạc của số đông là món ăn chung cho tất cả. Lấy thị hiếu số đông làm mẫu chung để “giảm biên chế” thành phần nghe nhạc là tự làm nghèo đời sống âm nhạc. Công chúng của thời đại toàn cầu hóa là một đối tượng mang nhiều khuôn mặt, nhiều sở thích, nhiều “cái tôi” khác nhau, khác về lứa tuổi, hoàn cảnh, môi trường, trình độ, nghề nghiệp, thẩm mĩ, tâm lý , tính cách... Sự đa diện của đối tượng nghe nhạc đòi hỏi tính đa dạng trong sinh hoạt âm nhạc và thúc đẩy sự phát triển muôn màu muôn vẻ của nền âm nhạc đương đại.

Thay vì đứng từ phía này để xem xét chê bôi sở thích của phía khác, thay vì lấy thước đo thẩm mỹ của phái này để đo giá trị phía khác, sự thể hẳn sẽ dễ chịu hơn cho tất cả các loại thành phần công chúng nếu chúng ta có cái nhìn thoáng hơn, luôn tìm cách mở rộng thực đơn cho các khẩu vị khác nhau tùy ý lựa chọn. Một mặt chủ động đầu tư phi lợi nhuận và có quy mô vào những thể loại âm nhạc không thuộc diện ăn khách để không bỏ rơi số ít, bởi cái gọi là người nghe đích thực, là văn hóa cấp cao thật đáng tiếc lại vẫn thuộc về số ít. Mặt khác, cũng không thể nhân danh đẳng cấp của số ít để miệt thị hay phủ nhận vai trò và ý nghĩa của âm nhạc đại chúng.

Để làm được như thế thì giới nhạc chẳng những cần thoát khỏi sự lệ thuộc vào thị hiếu đại chúng, mà còn phải chủ động góp phần nâng cao thẩm mỹ công chúng. Giới nhạc ở đây không chỉ là người sáng tác và biểu diễn, mà cả các nhà quản lý và quảng bá âm nhạc. Đặc biệt quan trọng là tác động của giới lý luận phê bình âm nhạc. Song họ đã làm được gì?
Vài chục năm gần đây, hầu như năm nào các học viện, nhạc viện và trường nghệ thuật ba miền Bắc - Trung - Nam cũng cho ra lò thêm tân binh bổ sung cho đội quân lý luận âm nhạc. Vậy mà vẫn còn đây đó lời phàn nàn: lĩnh vực phê bình âm nhạc hầu như trống trơn, đội ngũ phê bình âm nhạc gần như không có.

Năm nào Hội Nhạc sĩ cũng kết nạp thêm vài nhà lý luận và con số hơn trăm hội viên chuyên ngành lý luận cũng đủ để lập thành một hội độc lập. Thế mà trong bản tổng kết nhiệm kỳ nào, ngành lý luận cũng vẫn kiên trì trụ ở điểm yếu nhất trong cái thế kiềng ba chân sáng tác - biểu diễn - lý luận.

So với trước năm 1945 chỉ có 170 đầu báo, giờ có trên 700 loại báo, hầu như nào báo cũng có chuyên mục âm nhạc hoặc chuyên mục văn hóa, nghệ thuật hoặc giải trí có liên quan đến âm nhạc. Đó là chưa thể thống kê hết bao nhiêu website chuyên ngành, bao nhiêu báo điện tử và blog cá nhân quan tâm đến nghệ thuật âm nhạc. Vậy mà các nhà lý luận vẫn than phiền thiếu diễn đàn âm nhạc, nhiều khi muốn nói mà chẳng biết nói ở đâu, thành ra đành chấp nhận mang tiếng có cũng như không.

Những điều nghịch lý như vậy đều có nguyên do nên vẫn cứ tồn tại chưa biết đến bao giờ. Cái “bao giờ” ấy là lúc nào?

Đấy là lúc:
1/ xóa được cái khoảng cách đáng buồn giữa học với hành, giữa đào tạo lý luận ở nhạc viện với yêu cầu thực tế của đời sống âm nhạc;

2/ hoạt động lý luận âm nhạc được “xã hội hóa”, tận dụng được sự đầu tư, hỗ trợ, hợp lực từ các cơ quan quản lý văn hóa nghệ thuật và các hội chuyên ngành, trung ương cũng như địa phương;

3/ luôn có sự kết nối chặt chẽ giữa các nhà lý luận âm nhạc với báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng.

Về khoảng cách giữa đào tạo và yêu cầu xã hội: dù giới lý luận âm nhạc đã nhiều lần đề xuất với Bộ Giáo dục và đào tạo, nhưng cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có mã ngành đào tạo phê bình âm nhạc. Học trò khoa lý luận ra trường phải tự học trong trường đời những kỹ năng cần có trước khi hành nghề phê bình, nên ít ai chuyên tâm với cái nghề “khó nhằn” mà dễ va chạm này. Kết quả hàng chục năm nay đào tạo nhiều mà chủ yếu chỉ cung cấp nhân lực cho đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu, chứ chuyên ngành phê bình quả thực vẫn là số 0.

Về tính xã hội trong hoạt động phê bình: hoạt động chính của lý luận âm nhạc vẫn là các đề tài nghiên cứu khoa học, giáo trình giảng dạy. Đối tượng đọc sách chuyên ngành vốn rất hạn hẹp, lại trong thời buổi văn hóa đọc xuống cấp nên các công trình lý luận âm nhạc hầu hết không tránh khỏi số phận lưu kho. Phát hành số lượng ít, thiếu hẳn khâu quảng bá để bán, sách lý luận rất ít điều kiện hòa nhập vào đời sống xã hội. Song có thể nói đây chính là chất xám, là những văn bản sử liệu mà giới lý luận để lại cho hậu thế.

Trong tài sản để lại cho tương lai của ngành lý luận có những bộ sách quý, được thực hiện công phu bởi sự hợp lực của nhiều tác giả, trong đó đáng kể nhất là:

- Âm nhạc mới Việt Nam - Tiến trình và thành tựu (Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh, Thái Phiên; Viện Âm nhạc, 2000; 1000 trang): tổng kết và đánh giá hoạt động âm nhạc trên các lĩnh vực sáng tác, biểu diễn, đào tạo, lý luận từ khi hình thành và phát triển qua các chặng đường lịch sử đất nước ở thế kỷ XX.

- Tân nhạc Hà Nội - Từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - Hình thành và phát triển (Hoàng Dương, Phạm Tuyên, Hồ Quang Bình, Vũ Tự Lân, Nguyễn Ngọc Oánh; Hội Âm nhạc Hà Nội, 2002; 294 trang): khảo cứu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, phác thảo những gương mặt đầu tiên đã đặt những viên gạch đầu tiên cho nền nhạc mới nước nhà.

- Hợp tuyển tài liệu nghiên cứu - lý luận - phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX (Viện Âm nhạc, 2003) được trao Giải đặc biệt của Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 2004. Đây là công trình khoa học đồ sộ tuyển chọn những bài viết về âm nhạc trên báo chí của thế kỷ trước, đặc biệt phần dẫn giải ở đầu mỗi tập đã cố gắng đưa ra cái nhìn tổng quát và hệ thống trong từng lĩnh vực của nền âm nhạc nước nhà. Bộ sách gồm năm tập, bảy cuốn:

Tập I (Dương Viết Á) - Phần 1 : Những kiến giải về văn hóa âm nhạc (1192 trang)

Tập II (Tô Ngọc Thanh) - Phần 2: Nhạc hát cổ truyền (1300 trang)

                                           - Phần 3: Nhạc đàn cổ truyền (1040 trang)

Tập III (Vũ Nhật Thăng) - Phần 4: Nhạc cụ (704 trang)

Tập IV (Bùi Trọng Hiền) - Phần 5: Nhạc sân khấu cổ truyền (1370 trang)

Tập V (Nguyễn Thị Minh Châu) - Phần 6: Nhạc hát mới (1132 trang)

                                                        - Phần 7: Nhạc đàn mới (600 trang)

- Âm nhạc Việt Nam - Tác giả tác phẩm (Trọng Bằng chủ biên; Viện Âm nhạc, 2006-2009) giới thiệu cuộc đời và phân tích tác phẩm của 54 nhạc sĩ đã nhận giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Bộ sách gồm năm tập:

Tập 1 (Nguyễn Thị Nhung) chân dung 11 nhạc sĩ (284 trang)

Tập 2 (Lê Văn Toàn) chân dung 12 nhạc sĩ (324 trang)

Tập 3 (Nguyễn Thị Minh Châu) chân dung 12 nhạc sĩ (484 trang)

Tập 4 (Phạm Tú Hương) chân dung 12 nhạc sĩ (448 trang)

Tập 5 (Vũ Tự Lân) chân dung 12 nhạc sĩ (296 trang)

Năm cuốn của năm tác giả trên vào năm 2010 được bổ sung chỉnh sửa và tái bản thành một tập sách khổ lớn, vào năm 2012 được trao Giải đặc biệt của Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Giải A của Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương.

- Ca khúc Hà Nội thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI của nhóm tác giả: Hoàng Dương, Hồ Quang Bình, Vũ Tự Lân, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Thị Minh Châu (766 trang, Nhà xuất bản Hà Nội, 2010). Cuốn “biên niên sử bằng âm thanh” của Hà Nội này được trao Giải nhất của Hội Nhạc sĩ Việt Nam năm 2012.

- 1000 năm âm nhạc Thăng Long - Hà Nội (Nhà xuất bản Âm nhạc, 2010) gồm 5 cuốn sách với phần nhạc cổ (ba tập đầu) của các tác giả: Vũ Nhật Thăng, Bùi Trọng Hiền, Phạm Minh Hương, Nguyễn Thủy Tiên, Hồ Hồng Dung, Kim Anh và phần nhạc mới (hai tập cuối) của các tác giả: Dương Viết Á, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Thị Minh Châu.

Ngoài ra còn rất nhiều sách nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền, chân dung nhạc sĩ, phân tích tác phẩm và nhiều cuốn tập hợp những bài bình luận về mọi hoạt động âm nhạc… Còn có không ít bài viết kịp thời về hiện trạng sinh hoạt âm nhạc, nhưng chỉ đăng ở diễn đàn chuyên ngành: tạp chí Âm nhạc và website của Hội Nhạc sĩ Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu âm nhạc (Thông báo khoa học) của Viện Âm nhạc, các tờ nội san của Học viện Âm nhạc quốc gia, của các nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh và Huế; hoặc trong kỷ yếu hội thảo chuyên ngành của Hội Nhạc sĩ, các hội địa phương và Viện Âm nhạc. Qua đây có thể thấy giới lý luận luôn cố gắng thực hiện nhiệm vụ tổng kết và đánh giá thành quả sáng tác, phân tích mọi hiện tượng nổi cộm trong biểu diễn và thưởng thức, quan tâm đặc biệt đến vấn đề thị hiếu và giáo dục thẩm mỹ âm nhạc.

Phải nói rằng ba thập niên gần đây, nhất là từ khi bước sang thế kỷ XXI, ngành lý luận âm nhạc đã xuất bản sách nhiều chưa từng thấy. Cần ghi nhận nỗ lực xuất bản của Viện Âm nhạc đã duy trì diễn đàn chuyên ngành để gây dựng “gia sản” đáng kể cho ngành lý luận phê bình âm nhạc. Đáng tiếc, như đã nói trên, nỗ lực đó hiện dừng ở khâu xuất bản mà không phát hành, cho nên những cố gắng xã hội hóa nhạc chuyên nghiệp chỉ thể hiện trong cách viết của một vài tác giả, chứ ấn phẩm phê bình chưa có cơ hội đi vào đời sống tạo hiệu quả xã hội như lẽ ra nó có thể. Sách in với số lượng ít, không kinh doanh, những người được “cho không biếu không” chưa chắc đúng đối tượng cần. Thật thiệt thòi cho phê bình âm nhạc nói chung và cho riêng các tác giả. Không thể kiểm chứng phản ứng của người đọc để điều chỉnh cách quảng bá âm nhạc chuyên nghiệp, thiếu những phản hồi khích lệ thì người viết nhiệt tâm mấy cũng đến lúc nguội lạnh.

Với tình cảnh “áo gấm đi đêm”, các nhà lý luận luôn bị trách cứ là kẻ đứng ngoài thời cuộc, vì bình luận ca nhạc đại chúng trên các phương tiện truyền thông lâu nay gần như độc quyền của báo giới. Một khi nhà báo đã bao sân, thì sản phẩm báo chí mặc nhiên biến thành đại diện duy nhất cho phê bình âm nhạc.

Giới làm báo viết bình luận âm nhạc mang đậm tính báo chí: nhạy bén, kịp thời, sắc sảo, câu khách. Vì nhằm mục đích đưa tin và không phải “dân” nhạc chuyên nghiệp nên bài viết của họ luôn chú trọng cập nhật thông tin, hiện tượng và sự việc bên ngoài, còn về chất lượng nghệ thuật thì chỉ khen chung chung kiểu quảng cáo.

Đưa tin kịp thời vừa là thế mạnh, vừa là điểm yếu của nhà báo trong vai trò bình luận âm nhạc. Khi đứng đúng chỗ thì không ai có thể thay thế được vị trí tiên phong của những cây bút nhanh nhạy và can đảm chất báo chí. Chỉ khi nhà báo buộc phải đóng vai nhà phê bình âm nhạc chuyên nghiệp thì mới dễ lộ ra những thiếu hụt thuộc kỹ năng chuyên ngành và vai diễn không đủ sức thuyết phục.

Luôn theo sát âm nhạc thị trường, nhà báo dễ bị chi phối bởi thị hiếu đại chúng. Bình luận về âm nhạc mà hầu như không có âm nhạc, chỉ đưa chuyện ngoài lề, gây sốc càng tốt để câu khách. Khi cần, nhà báo cũng biết khai thác nhà lý luận theo kiểu phỏng vấn chớp nhoáng qua điện thoại, rồi cộng với chút kỹ năng cắt dán từ tham luận của các nhạc sĩ để chế thành bài bình luận của mình. Đôi khi cậy thế “phương tiện trong tay ta”, nhà báo nhận được bài viết của nhà lý luận mà không đăng, chỉ xào xáo thông tin rồi để tên mình là tác giả bài viết. Trong hành vi “đạo văn” đó, không phải lúc nào những cây bút bình luận âm nhạc không chuyên cũng may mắn với việc sử dụng đúng chỗ đúng nghĩa thuật ngữ chuyên ngành âm nhạc.

Với đông đảo các cây bút không chuyên ngành âm nhạc, diễn đàn báo chí hiện nay nhìn chung thiếu tính chuyên nghiệp trầm trọng. Nếu đây là nhược điểm lớn nhất của các tác giả không thuộc ngành lý luận âm nhạc, thì nhược điểm chính của dân nhà nghề là sự bất cập, là thiếu tính xã hội. Xu hướng tự phát đại trà hóa đội ngũ phê bình vẫn mạnh hơn ý thức “xã hội hóa” phê bình chuyên nghiệp.

Trên đây đã phần nào cho thấy mối quan hệ giữa lý luận với báo viết, còn với báo nói báo hình thì sao? Địa bàn hoạt động của phê bình âm nhạc chủ yếu là sách báo. Các nhà lý luận chỉ hành nghề viết, chưa phát huy khoa nói. Mặc dù các các nhà lý luận cũng tham gia vào các cuộc tọa đàm âm nhạc trên đài phát thanh, nhưng trong thời đại thưởng thức nhạc bằng “nhìn nhiều hơn nghe”, thì phê bình cần tác động trực tiếp vào sinh hoạt âm nhạc thông qua chương trình biểu diễn trên sân khấu và các chuyên mục ca nhạc của đài truyền hình. Song không hề có sự dẫn giải của các nhà lý luận trong chương trình biểu diễn, nhất là hòa nhạc không lời. MC là vai diễn chỉ cho riêng các nam thanh nữ tú biết thao thao như vẹt những câu sáo rỗng bất chấp kiến thức âm nhạc.

Trong thời chuyển giao nhiều giá trị tưởng bất biến cũng lung lay, không có gì ngạc nhiên nếu phê bình âm nhạc chưa ổn định, lúc rò rẫm, lúc nôn nóng. Các nhà lý luận lúng túng trong việc hòa hợp lý thuyết sách vở với đời sống xã hội đang rối tung các chuẩn mực, trong khi các nhà báo quá tự tin sẵn lòng gánh lấy trách nhiệm “bao sân”. Thực ra đây chưa phải điều đáng lo ngại, bởi chính trong những lúng túng, những nôn nóng vẫn thấy được tiềm năng và khát vọng làm nghề của người cầm bút.

Cái đáng lo là tạo môi trường thuận lợi cho những người sáng tạo bộc lộ tiềm năng và khát vọng đổi thay. Khát vọng và nỗ lực tự thân ở mỗi người sáng tạo là cần nhưng chưa đủ. Sự nghiệp phát triển âm nhạc từ những gì đã làm được trong thời đại hội nhập này còn đòi hỏi sự hợp lực của nhiều lĩnh vực (sáng tác - biểu diễn - thưởng thức - phê bình), của nhiều ngành nghề (giáo dục đào tạo, tổ chức chương trình, xuất bản in ấn, quảng bá truyền thông…) và quan trọng hơn cả là tài điều khiển sự phối hợp đó ở người quản lý.

Ở ta trong nhiều năm tránh động chạm đến người quản lý như sợ phạm húy, điều này tạo nên thói quen cho người lãnh đạo là không chấp nhận ý kiến phản biện, mà một xã hội phát triển lại luôn cần đến sự phản biện. Hàng năm không biết bao nhiêu hội thảo lớn nhỏ chuyên ngành âm nhạc phản ánh hiện trạng và đề xuất giải pháp, nhưng chỉ ở phạm vi mình nói mình nghe, hầu như không có mặt các nhà quản lý - những người thực sự có quyền cầm cân nảy mực, cho nên nhiều sự việc “biết rồi nói mãi” đó lại tiếp tục vẫn y nguyên.

Ở ta còn thường đưa người làm chuyên môn lên làm quản lý chuyên ngành, miễn là có đủ chức danh học hàm, nếu đó là nhà chuyên môn thuần túy thì chuyên ngành đó có thể mất một chuyên gia giỏi và thêm một nhà quản lý chưa chắc đã giỏi. Quản lý cũng là một nghề cần có tính chuyên nghiệp. Từ những bài học hay - dở của thời kinh tế thị trường càng thấy rõ rằng mọi giải pháp chẳng thể có hiệu quả thực sự nếu như vẫn còn đó khoảng cách giữa năng lực quản lý với yêu cầu xã hội, khoảng cách giữa sự ưu đãi dành cho giới quan chức với người làm chuyên môn thuần túy, khoảng cách giữa cơ chế “xin - cho” kiểu xét nét ban ơn với sự thấu hiểu và niềm tin.

Người quản lý nghệ thuật có bản lĩnh, có tầm, có tâm luôn biết đặt lòng tin ở người sáng tạo và biết cần làm gì để tạo nên môi trường tốt nhất cho người sáng tạo, từ đó nghệ thuật âm nhạc Việt Nam mới có thể thật sự hội nhập một cách bình đẳng vào cộng đồng âm nhạc toàn cầu.

11-2014

ĐĂNG BÌNH LUẬN

CAPTCHA
This question is for testing whether or not you are a human visitor and to prevent automated spam submissions.